NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Ngày 22/11/2019, Quốc hội khóa 14 thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020. Theo đó, đã sửa đổi, bổ sung 05/50 điều của Luật Tổ chức Chính phủ và 38/143 điều của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Hoàng Thao phát biểu tại cuộc họp thảo luận Tổ (hình ảnh minh họa)
Liên quan đến tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định một số điểm mới cụ thể sau đây:
1. Về phân cấp, phân quyền, ủy quyền (Điều 11, 12, 13, 14)
- Quy định rõ khi thực hiện phân cấp, phân quyền phải gắn với hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm các điều kiện về ngân sách, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp.
(Trước đây chỉ quy định: “Chính quyền địa phương được bảo đảm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp”).
- Quy định rõ: “Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác”. Quy định này nhằm tránh việc phân cấp, ủy quyền tràn lan.
(Trước đây chỉ quy định: “Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật”).
2. Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương
- Quy định theo hướng linh hoạt, theo đó, sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 4 để khẳng định nguyên tắc hiến định: chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
- Về tổ chức chính quyền địa phương ở quận, phường: sửa đổi, bổ sung Điều 44 và Điều 58 theo hướng chính quyền địa phương ở quận, phường là cấp chính quyền địa phương (có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương. Đây là quy định mở để phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý của từng đô thị.
- Trường hợp đơn vị hành chính cấp huyện ở hải đảo chia thành các đơn vị hành chính cấp xã thì tại đơn vị hành chính cấp xã tổ chức cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương; giao Chính phủ quy định việc tổ chức các cơ quan thuộc chính quyền địa phương ở địa bàn hải đảo (Điều 72).
- Tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó (Điều 75).
(Trước đây quy định: gồm có HĐND và UBND).
3. Về tổ chức HĐND
3.1. Bổ sung tiêu chuẩn về quốc tịch đối với đại biểu Hội đồng nhân dân: có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (Khoản 1 Điều 7).
3.2. Số lượng đại biểu: giảm từ 10% đến 15% số lượng đại biểu HĐND ở từng loại hình đơn vị hành chính. Cụ thể:
- Hội đồng nhân dân tỉnh:
+ Tỉnh miền núi, vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 500.000 dân trở lên có tối đa 75 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 85 đại biểu).
+ Tỉnh còn lại có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 01 triệu dân trở lên được bầu không quá 85 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 95 đại biểu).
+ Thành phố trực thuộc Trung ương: được bầu không quá tám mươi lăm đại biểu; Riêng Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh được bầu chín mươi lăm đại biểu (trước đây quy định tối đa là 95 – 105 đại biểu).
- Hội đồng nhân dân huyện:
+ Huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40.000 dân trở xuống được bầu 35 đại biểu; trên 40.000 dân được bầu tối đa 35 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 40 đại biểu).
+ Huyện còn lại có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; trên 80.000 dân được bầu tối đa 35 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 40 đại biểu).
- Hội đồng nhân dân quận:
+ Quận có từ 100.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 40 đại biểu).
+ Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở quận có từ ba mươi phường trực thuộc trở lên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 45 đại biểu).
- Hội đồng nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương:
+ Thị xã có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 80.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 40 đại biểu).
+ Thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ 100.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; có trên 100.000 dân thì cứ thêm 15.000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 40 đại biểu).
+ Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ ba mươi đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 45 đại biểu).
- Hội đồng nhân dân xã:
+ Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 2000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu.
+ Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên 2000 dân đến dưới 3000 dân được bầu 19 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 20 đại biểu)
+ Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có 3000 dân được bầu 21 đại biểu; có trên 3000 thì được bầu tối đa 30 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 35 đại biểu)
+ Xã còn lại có từ 5000 dân trở xuống được bầu 25 đại biểu; có trên 5000 dân được bầu tối đa 30 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 35 đại biểu).
- Hội đồng nhân dân phường:
+ Phường có từ 10.000 dân trở xuống được bầu 21 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 25 đại biểu).
+ Phường có trên 10.000 dân thì cứ thêm 5000 dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 30 đại biểu (trước đây quy định tối đa là 35 đại biểu).
3.3. Về Thường trực HĐND và số lượng Phó Chủ tịch HĐND
- Bỏ quy định Chánh Văn phòng trong Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Bổ sung Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp xã là Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã.
- Số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: nếu Chủ tịch hoạt động chuyên trách thì có 01 Phó Chủ tịch; nếu Chủ tịch hoạt động không chuyên trách thì có 02 Phó Chủ tịch.
- Giảm 01 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp huyện (từ 02 người xuống còn 01 người).
3.4. Về số lượng Phó Trưởng Ban HĐND cấp tỉnh
Nếu Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hoạt động chuyên trách thì có một Phó Trưởng ban; nếu Trưởng ban hoạt động không chuyên trách thì có hai Phó Trưởng ban.
3.5. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp xã
Bổ sung thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp xã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của cấp xã (do UBND cấp xã xây dựng) trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt.
3.6. Về số lượng Phó Chủ tịch UBND cấp xã loại II
Sửa từ 01 Phó Chủ tịch thành không quá 02 Phó Chủ tịch.
Xã loại I vẫn có tối đa 02 Phó Chủ tịch xã và xã loại III vẫn chỉ có 01 Phó Chủ tịch xã như trước đây.
3.7. Quy định cụ thể hơn về việc thôi làm nhiệm vụ đại biểu
“Trong nhiệm kỳ, nếu đại biểu Hội đồng nhân dân không còn công tác tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ở đơn vị hành chính mà mình đang là đại biểu và không cư trú tại đơn vị hành chính mà mình đang là đại biểu thì phải xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu”
3.8. Về bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương
Quy định theo hướng khái quát: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động theo quy định của pháp luật.
Giao Chính phủ quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, biên chế của cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; quy định việc tổ chức công tác tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã.
3.9. Không còn khái niệm “họp bất thường”
Khái niệm “họp bất thường” đã được sửa đổi thành “họp để giải quyết công việc phát sinh đột xuất hoặc họp chuyên đề”.
Nhìn chung, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định nhiều nội dung thay đổi so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13. Đến nay, Luật sửa đổi, bổ sung đã có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, trong luật có quy định điều khoản chuyển tiếp là: “Từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến khi bầu ra Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021 - 2026, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân tại các đơn vị hành chính, cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp xã, số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Phó Trưởng ban của Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp huyện, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn loại II tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13”. Như vậy, đối với những nội dung được chuyển tiếp nêu trên, những quy định mới sẽ bắt đầu được thực hiện trong nhiệm kỳ 2021 – 2026.
NTNP (Nguồn: hdnd.vn)