Xây dựng hệ thống pháp luật – Chuẩn mực sống và làm việc
Quản lý xã hội bằng pháp luật thực sự trở thành một nhu cầu của đời sống xã hội hiện đại, là thách thức và đòi hỏi trong tiến trình đổi mới và hội nhập.
Điều đó đặt ra những nhiệm vụ cho cả hệ thống chính trị mà trước tiên là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp. Trong đó hoạt động lập pháp của Quốc hội có vị trí quan trọng trong tiến trình thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tiến trình này có những bước tiến đột phá đi đầu đặt nền tảng pháp lý trong cải cách tổ chức hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN.
Hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân
Hoạt động lập pháp luôn gắn bó chặt chẽ với yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Đó là những yêu cầu huy động mọi nguồn lực, đoàn kết toàn dân thống nhất ý chí, sức mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng lại đất nước sau chiến tranh và hòa nhập, hội nhập quốc tế, cạnh tranh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tạo dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ đất nước trước các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, hoạt động lập pháp có mục tiêu trực tiếp luôn hướng đến hoàn thiện bộ máy nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Những bước tiến trong hoàn thiện bộ máy nhà nước được ghi nhân qua Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Trong đó, Hiến pháp 1992 đánh dấu thời kỳ đổi mới toàn diện, những đột phá về tổ chức bộ máy thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đặt ra yêu cầu, nhu cầu thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi quản lý xã hội, quản lý kinh tế từ chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, kế hoạch, văn bản pháp quy sang quản lý bằng luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã hội dần hình thành và ổn định. Trước những đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới, vai trò của Quốc hội tiếp tục được nâng cao, hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu lực, hiệu quả.
Một buổi làm việc của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 của Quốc hội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Ủy ban Võ Chí Công
Từ nền móng đổi mới tổ chức của Quốc hội các khóa, hoạt động lập pháp của Quốc hội trong những nhiệm kỳ IX, X, XI, XII, XIII, XIV được đẩy mạnh không ngừng trên cả 3 phương diện: Thứ nhất, phản ứng nhanh với các yêu cầu lập pháp thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng, ý chí nguyện vọng của nhân dân; Từ thực tiễn quản lý xã hội, yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước để ban hành luật điều chỉnh kịp thời. Nhiều đạo luật quan trọng, hoàn toàn mới trong nền pháp luật nước ta, trong quản lý kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh ra đời trong giai đoạn này. Thứ hai, kế thừa, nâng cao tính ổn định, toàn diện của hệ thống pháp luật, tính hiệu lực, hiệu quả quản lý trên cơ sở nâng các pháp lệnh thành luật; các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật phục vụ quản lý nhà nước và xã hội.
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. (Điều 8, Hiến pháp 2013)
Lựa chọn lĩnh vực ổn định điều chỉnh từ nghị định hoặc các văn bản dưới luật để pháp điển hóa. Từ đó nâng lên thành luật bảo đảm thực hiện nghiêm và thống nhất. Thứ ba, là sự tác động biện chứng từ hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật đặt ra yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo kịp với cơ chế vận hành mới, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Từ đó tăng cường pháp chế, kỷ cương, kỷ luật hành chính; xây dựng đội ngũ làm công tác pháp luật chuyên sâu ở các cấp, các ngành, đội ngũ tư vấn pháp lý và truyền thông nâng cao nhân thức pháp luật; nâng cao năng lực pháp lý của đội ngũ cán bộ công chức; mở rộng và coi trọng vai trò luật sư bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của nhà nước. Và đặc biệt trong các khóa gần đây Quốc hội quan tâm hoàn thiện quy trình làm luật, góp phần nâng cao năng lực lập pháp của bộ máy nhà nước, của Quốc hội; đại biểu Quốc hội.
Trên cơ sở Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013, hệ thống luật dần được hình thành, bổ sung, sửa đổi đồng bộ, thống nhất, bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội; làm nền tảng đổi mới phát triển kinh tế, bảo vệ tổ quốc; bảo đảm các quyền con người, quyền công dân và hoạt động đối ngoại đa phương và rộng mở; phục vụ tích cực quản lý mọi mặt đời sống xã hội; đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước; nâng cao trách nhiệm cán bộ, công chức, viên chức người lao động trong bộ máy nhà nước; góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
Bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân
Bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân là một thành tựu quan trọng của bộ máy nhà nước; đồng thời là một trong những điểm sáng trong hoạt động lập pháp. Ngay tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội Khóa I thông qua Hiến pháp 1946- Bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước độc lập dân chủ nhân dân đã trang trọng khẳng định tại Điều thứ nhất “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp 1946 đã dành toàn bộ chương 2 với 18 điều quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong đó khẳng định tất cả công dân Việt nam đều ngang quyền trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa, bình đẳng trước pháp luật và các quyền tự do ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, tư hữu tài sản, quyền học hành, chữa bệnh, quyền ứng cử, bầu cử…
Không đơn giản là vấn đề Hiến định về quyền con người, quyền công dân mà chính là sự đúc kết cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân loại, bình đẳng, tự quyết của các dân tộc; coi trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở khắp mọi nơi trên thế giới dù trình độ phát triển chênh lệch, nền văn hóa có những đặc thù khác nhau. Những quy định của Hiến pháp đầu tiên thực sự là nền tảng, kim chỉ nam cho xây dựng và thực hiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện quyền công dân, quyền con người ở Việt Nam.
Tiếp đó, các Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 tiếp tục khẳng định thành quả quan trọng này và phát triển sâu, rộng, đi vào cụ thể trong hệ thống pháp luật và đời sống xã hội và nâng cao lên ở tầng nấc mới trên nền tảng yêu cầu phát triển từng giai đoạn, thành tựu mới của đất nước, sự hợp tác, đấu tranh tôn trọng quyền con người, quyền của các dân tộc trong hội nhập quốc tế. Đặc biệt là Hiến pháp 2013- Hiến pháp của thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ làm thay đổi sâu sắc lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu. Hiến pháp 2013 đã kế thừa thành tựu xây dựng đất nước, bộ máy nhà nước, các quy định của Hiến pháp trước đây, đặc biệt Hiến pháp đầu tiên -Hiến pháp 1946- để bổ sung các quy định về quyền con người, quyền công dân và nâng lên một tầm cao mới; thúc đẩy hoàn thiệp và thực thi đầy đủ pháp luật bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Trong chiều dài lịch sử hiện đại của đất nước, suốt 75 năm qua, Quốc hội hiện thân của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, mang “trách nhiệm trước dân; thông qua hoạt động lập pháp thể chế hóa kịp thời đường lối và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng hoàn thiện, đầy đủ theo kịp hệ thống pháp luật tiến bộ trên thế giới. Chỉ tính từ Hiến pháp 1992 đến nay, Quốc hội ban hành 460 luật, 631 nghị quyết; Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 148 pháp lệnh. Các văn bản này đã quy định một cách khá đầy đủ và toàn diện về quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Tại tọa đàm “5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 15.01.2019, Giáo sư, tiến sĩ Đào Trí Úc (Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội) chia sẻ: Điều 3, Hiến pháp 2013 ghi nhận: Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện) sau đó Hiến pháp lại nhắc lại một lần nữa, nguyên tắc này được nhắc lại hai lần trong ngữ cảnh khác nhau của Hiến pháp, nguyên tắc “công nhận”, “tôn trọng”, “bảo vệ” và “bảo đảm” về quyền con người. Tôi nghĩ rằng đây là thành tựu, là kết quả của sự đổi mới về kinh tế, là sự phát triển của nền kinh tế thị trường đặt ra nhu cầu khách quan về sự tôn trọng tự do của con người, tự do về kinh tế dẫn đến tự do về con người. Thứ hai là tư tưởng, chủ trương, thực tiễn. Có thể nói, quyền con người là đỉnh cao của trí tuệ con người, là điểm chói sáng nhất, mục tiêu của quyền con người. Quyền con người trong Hiến pháp chính là chúng ta ghi nhận những kết quả của thành tựu xây dựng nhà nước pháp quyền.
Tọa đàm “5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 15.01.2019
Bảo vệ quyền, công dân, quyền con người không chỉ dừng ở công việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật mà còn ở cơ chế thực thi từ cơ quan hành chính, cán bộ công chức nhà nước tuân thủ nghiêm quy định Hiến pháp, pháp luật; hoạt động xét xử độc lập và tuân thủ theo pháp luật của Tòa án; các quy định về tố tụng bảo đảm quyền con người, quyền công dân chặt chẽ, đầy đủ và thực hiện công minh… Đặc biệt là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trên các lĩnh vực và khắp mọi miền đất nước luôn soi xét các quy định được thực thi như thế nào để có uốn nắn, sửa đổi; Bảo vệ tính đúng đắn và khả thi của pháp luật; bảo vệ các quyền của công dân. Mặt khác, thông qua chất vấn và hoạt động giám sát và hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật để điều chỉnh những mâu thuẫn, yếu kém bộc lộ trong hoạt động thực tiễn quản lý nhà nước, thực thi pháp luật để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Tác động đến tiến trình đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là điểm cô đọng mối quan hệ Nhà nước và pháp luật được ghi nhận rõ ràng, sinh động trong khoản 1, điều 8, Hiến pháp 2013. Điều đó còn phản ánh quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước trong suốt thời kỳ đổi mới; đồng thời phản ánh thành quả của hoạt động lập pháp và trình độ phát triển của đất nước trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Trong mỗi nhiệm kỳ, chúng ta đều tiến hành sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật bầu cử và các Luật tổ chức Chính quyền địa phương, Luật tổ chức Tòa án nhân dân tối cao, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Luật Cán bộ công chức… Đây là sự điều chỉnh kịp thời bộ máy nhà nước qua tổng kết nhiệm kỳ và trước yêu cầu mới của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử phát triển đặt ra.
Mặt khác, cần thấy rõ, hệ thống pháp luật được hình thành ngày càng đầy đủ, toàn diện và cụ thể thì sự vận hành nó ở các tầng nấc chính quyền từ trung ương đến cơ sở đòi hỏi trách nhiệm và tính chuyên nghiệp và cùng bộc lộ những yếu kém, vướng mắc, bất cập của bộ máy ở một số khâu, một số thời điểm làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Mới đây, Quốc hội ban hành Nghị quyết 56/2017/QH14 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt đông hiệu lực hiệu quả trong đó nêu rõ pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu thống nhất. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ chậm được điều chỉnh. Tổ chức bộ máy bên trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân còn nhiều đầu mối, nhiều tầng nấc, chưa tinh gọn, hoạt động chưa thực sự hiệu lực, hiệu quả, thời gian xử lý công việc còn chậm... Đây chính là những yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động và ở đây có sự tác động qua lại của hệ thống pháp luật đòi hỏi chủ thể vận hành phải theo kịp trình độ phát triển của hệ thống pháp luật trong quản lý; trách lợi dụng, lạm dụng sơ hở của luật, quy định chung chung làm bộ máy phình ra nhiều tầng nấc, thêm nhiều cán bộ, nhiều quy định “con”.
Kỳ họp thứ X, Quốc hội XIV
Ảnh: Quang Khánh
Việc ra soát các quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn triệt tiêu lẫn nhau hay tạo ra những “lỗ hổng” trong hoạt động quản lý theo pháp luật trở thành vấn đề quan trọng trong nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy cũng như giá trị, hiệu lực thực sự của luật do Quốc hội ban hành.
Chính trong quá trình làm luật khơi gợi và đặt ra yêu cầu đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội một cách sâu sắc, triệt để hơn. Điều này bắt đầu từ yêu cầu cải tiến quy trình làm luật, nêu cao vai trò cơ quan trình, soạn thảo, cơ quan thẩm tra và tiếp thu, chỉnh lý nhất là vai trò của đại biểu Quốc hội. Không chỉ có vậy, vai trò của các cơ quan có quyền sáng kiến lập pháp, đặc biệt là của Chính phủ và bộ ngành, địa phương. Lĩnh vực nào cũng phải được phân định rõ trách nhiệm; tránh sa vào lợi ích cục bộ địa phương, bộ, ngành, lợi ích nhóm. Vấn đề làm luật không chỉ là vấn đề quy trình mà đến từ con người, những chủ thể tham gia quy trình đó hành xử như thế nào? Rõ ràng vai trò của đại biểu là đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước rất quan trọng. Mặt khác, tính chuyên nghiệp, tri thức khoa học pháp lý và thực tiễn, kỹ thuật lập pháp, phân tích chính sách, xây dựng chính sách và chuyển hóa đời sống, quan hệ xã hội sinh động thành các quy định của luật... mang tính quyết định trong hoạt động lập pháp, quyết định chất lượng luật còn hình thức hay sẽ thực chất, cụ thể hay chung chung, khả thi hay không vào cuộc sống. Điều này trước hết đòi hỏi sự thay đổi cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, chuyên sâu hơn. Mà điều đầu tiên là tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách; tăng cường tính chuyên nghiệp của đại biểu Quốc hội, trình độ năng lực chuyên môn trong hoạt động lập pháp trên các lĩnh vực và tính đại diện cho lợi ích chung của cộng đồng và các tầng lớp nhân dân, thấu đạt ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước.
Đi theo xu hướng này, Luật tổ chức Quốc hội (Khóa IX) đã có quy định đại biểu chuyên trách với công việc, nhiệm vụ rõ ràng. Từ đó, số lượng đại biểu chuyên trách tăng dần qua các khóa từ 25% đến 30%; bầu cử Quốc hội khóa XV sẽ là 35%. Tỷ lệ tăng dần đã phản ánh đòi hỏi, nhu cầu của công tác lập pháp thường xuyên và chất lượng hơn nữa; nâng cao vị thế, vị trí, vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân trong việc hoạch định, quyết định chính sách và đặt ra pháp luật để quản lý mọi mặt đời sống xã hội.
Những đóng góp của hoạt động lập pháp trên lĩnh vực xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm thực hiện quyền công dân, quyền con người và xây dựng bộ máy chính quyền nói chung và đổi mới tổ chức Quốc hội nói riêng là những dấu mốc lịch sử quan trọng trong thành tựu lập pháp 75 năm qua; góp phần đưa đất nước vững bước bước vào thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ tổ quốc.
___________
Tài liệu tham khảo
- Tọa đàm của Báo ĐBND về "5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp".
- 50 năm, 60 năm, 70 năm Quốc hội Việt Nam.
- Cơ sở dữ liệu hồ sơ, tài liệu lưu trữ của Quốc hội.
- Hiến pháp 1946, 1959,1980,1992,2013.
- Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội Về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt hiệu lực, hiệu quả.
Thanh Hà, Lê Hùng, Duy Anh - Trình bày: Duy Thông
Theo: Báo đại biểu nhân dân https://www.daibieunhandan.vn/bai-3-xay-dung-he-thong-phap-luat--chuan-muc-song-va-lam-viec